Pages

Saturday, March 9, 2013

Đền thờ và lăng Kinh Dương Vương - Dấu ấn thiêng về thời mở nước

Hàng năm, cứ mỗi độ tết đến xuân về, hàng ngàn vạn “con Hồng cháu Lạc” từ khắp mọi miền lại tìm về khu di tích đền thờ và lăng mộ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, thuộc thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, để tri ân và thờ phụng những bậc thủy tổ dân tộc có công khai mở nước.

79_full Á Lữ là một làng cổ nằm sát bờ Nam sông Đuống, truyền rằng là đất hội tụ của “Tứ linh” với 99 cái ao, 99 cái gồ, được ví như Long, Ly, Quy, Phượng chầu về, nơi duy nhất có lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ là những bậc thủy tổ có công mở nước. Lăng Kinh Dương Vương nằm ở trên bãi bồi cao rộng thoáng sát bờ Nam sông Đuống và sầm uất bởi rừng cây cổ thụ bao quanh.

Xưa kia, hai ngôi đền cổ ở phía Tây làng Á Lữ thờ phụng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ (Đền Thượng thờ Kinh Dương Vương, đền Hạ thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ), có quy mô kiến trúc to lớn, chạm khắc trang trí “tứ linh, tứ quý” lộng lẫy. Về phía Đông lăng Kinh Dương Vương xưa còn có một ngôi chùa có tên chữ là “Đông Linh Bát Nhã tự” thờ các đức “Thánh mẫu thủy tổ” là Vụ Tiên, Thần Long và Âu Cơ.

Thủy tổ Kinh Dương Vương còn được thờ làm Thành Hoàng làng thôn Á Lữ. Ngôi đình cổ ở phía Đông làng được khởi dựng với quy mô to lớn gồm 2 tòa: Tiền tế 7 gian và Đại đình có 5 gian tiền đình và 3 gian hậu cung, bộ khung gỗ chạm khắc “tứ kinh tứ quý” lộng lẫy. Hệ thống thần phả sắc phong của đình và đền đã cho biết rõ người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, có công khai sơn sáng thủy.

Năm 1949-1952, giặc Pháp kéo đến thôn Á Lữ, đóng đồn bốt ở đây, phá hoại toàn bộ đền đình chùa, dân làng đã kịp cất giữ một số đồ thờ tự cổ quý như: ngai, kiệu, sắc phong… của đền và đình. Đến năm 1971, nhân dân thôn Á Lữ đã tôn tạo khu Lăng mộ Kinh Dương Vương. Năm 2000, một ngôi đền chung thờ các bậc thủy tổ được phục dựng theo kiểu thức truyền thống.

Điều vô cùng quý giá của quần thể di tích là còn bảo lưu được kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như: thần phả, sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối, tín ngưỡng, lễ hội: Tại lăng mộ Kinh Dương Vương còn bảo lưu được tấm bia đá ghi rõ “Kinh Dương Vương lăng”, niên đại “Minh Mệnh nhị thập nhất niên” (1840). Tại đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, hiện còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý giá như: ngai bài vị, thần phả, sắc phong, văn tế, hoành phi, câu đối. Hệ thống hoành phi, câu đối phản ánh ca ngợi về người được thờ như: “ Nam bang thủy tổ” (Thủy tổ nước Nam), “ Nam tổ miếu” (Miếu tổ nước Nam)… Đặc biệt là 15 đạo sắc phong của các triều vua phong cho người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, với các niên đại như sau: 1 đạo Gia Long 9 (1810), 1 đạo Minh Mệnh 2 (1821), 2 đạo Thiệu Trị 2 (1842), 2 đạo Thiệu Trị 6 (1846), 2 đạo Tự Đức 3 (1850), 1 đạo Tự Đức 33 (1880), 2 đạo Đồng Khánh 2 (1887), 1 đạo Duy Tân 3 (1909) và 2 đạo Khải Định 9 (1924).

Kho tàng di sản văn hóa quý giá của quần thể di tích còn được thể hiện ở tín ngưỡng và lễ hội truyền thống. Tục truyền, xưa hàng năm cứ đến ngày 18 tháng giêng đền, đình làng Á Lữ lại được mở hội. Để lo việc đình đám, ngay từ trong năm làng phân công việc cho quan đám và các giáp. Giáp đăng cai lễ hội được nhận ruộng công để nuôi lợn và làm bánh chưng, bánh dày tế thần. Vào hội, ngay từ ngày 12, đền và đình được mở cửa để bao sái đồ thờ tự, phong cờ quạt. Đến ngày 16, làng tổ chức rước nước từ sông Đuống về đình đền để tế lễ quanh năm. Ngày 17, làng tổ chức rước kiệu từ đình xuống đền Thượng và đền Hạ để xin rước các bậc thủy tổ dân tộc về đình để tế lễ và mở hội. Từ ngày 18 đến 24, mỗi ngày một tuần tế. Lễ vật có lợn cả con, bánh trưng, bánh dày. Đến ngày 25, tế giã đám tại đền Thượng và đền Hạ bằng cá gỏi.

Ngoài đình đám 18 tháng Giêng, còn có ngày sự lệ riêng của đền Thượng và đền Hạ. Tục truyền, cứ đến ngày 15 tháng 8 (âm lịch), dân làng làm 3 mâm trám đen và 3 mâm gỏi cá để tế các bậc thủy tổ Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân và Âu Cơ tại đền Thượng và đền Hạ. Các mâm tế: “trám đen” tượng trưng cho 50 người con theo mẹ lên vùng rừng núi sinh cơ lập nghiệp. Còn các mâm “cá gỏi” tượng trưng cho 50 người con theo cha xuống biển khai mở miền biển. Trong những ngày lễ hội, đã thu hút hàng ngàn vạn “Con lạc cháu Hồng” từ khắp mọi miền đất nước về với khu di tích lăng và đền thờ, nhằm tri ân và thờ phụng tôn vinh Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ là những bậc thủy tổ có công mở nước.

Với những giá trị và ý nghĩa lớn lao của khu di tích lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, vừa qua UBND tỉnh Bắc Ninh đã công bố Quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích với quy mô rất lớn gồm nhiều hạng mục công trình. Khu di tích đã và đang trở thành trọng điểm du lịch văn hóa tâm linh của nước ta.

Theo BBN

HwangNguyen Tags:

Ngôi làng coi lợn như vật báu

Lợn ở thôn Ngọc Khám không được nhốt mà phải thả rông. Người lớn, trẻ nhỏ thấy phải kính cẩn gọi là 'ông', không được đánh đuổi.

ImageHandler.ashx Sau buổi lễ long trọng ngày mùng 7, đến ngày mùng 8 các “ông lợn” được đưa trở lại nhà ông đám để giết thịt. (Ảnh minh họa).

Lấy lợn làm vật lễ là điều không lạ trong rất nhiều lễ hội ở Việt Nam nhưng ở thôn Ngọc Khám (xã Gia Đông, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) người ta lấy lợn sống làm vật lễ.

Người dân thôn Ngọc Khám phải thực hiện hàng loạt quy định liên quan, rồi phải bình chọn ra được một người để nuôi chú lợn trong ba năm cho đến ngày hội làng. Chú lợn trong ngày lễ hội này được cả làng cung kính gọi là “lợn Ông Hợp”.

Tục nuôi “lợn Ông Hợp” phục vụ cho việc tế đám hàng năm. Ngoài nghi thức tế thần, đây còn là một sự biểu dương nghề nông độc đáo ở vùng quê thuần nông này.

Cụ Nguyễn Phú Thật (81 tuổi, từng làm thủ từ của đình làng) là một trong những người được nuôi “lợn Ông Hợp” nên nắm rõ nhưng điều nghiêm ngặt liên quan đến việc nuôi lợn và tế lễ.

Cụ cho biết, theo hệ thống thần phả sắc phong của đình thì người được thờ là Lạc Long Quân và Âu Cơ - hai vị thủy tổ có công mở nước, khai sơn sáng thủy. Vì thế, vào ngày hội làng, vật cúng là lợn sống và cá chín.

Theo lời cụ thì cơ cấu tổ chức thời xưa và thời nay vẫn không thay đổi: các dòng họ trong làng Ngọc Khám được chia thành 4 giáp gọi theo phương hướng là đông, tây, nam, bắc. Mỗi giáp là một đơn vị tham gia lễ hội của làng. Các giáp bầu người đứng ra tế đám từ ba năm trước.

Để có lợn làm vật lễ, người dân phải tuân thủ nhiều quy định nghiêm ngặt được truyền lại từ nhiều thế hệ cha ông.

Theo đó, để được chọn làm người nuôi lợn tế lễ, gia đình phải có đủ các tiêu chuẩn như: vợ chồng song toàn, con cái đề huề (có nam, có nữ, không bị dị tật), bản thân là người có uy tín với dân làng. Bên cạnh đó, người được chọn còn phải là người cao tuổi nhất giáp.

Trong năm cuối cùng trước khi tế đám mà “có bụi” (có tang từ thân phụ mẫu, hoặc người thân phải khăn trắng, áo dài) thì phải “nhảy ra”, tức là không được tế đám nữa, trong giáp phải bầu người khác thay.

Khi được bầu vào chân tế đám sẽ được làng chia ruộng công cho để có hoa lợi dùng cho tế đám, trong đó có một việc quan trọng hàng đầu là nuôi “lợn Ông Hợp”. Đời người chỉ được đứng ra tế đám một lần, sau đó được dân làng xưng gọi một cách kính trọng là “ông đám”.

Cụ Nguyễn Văn Ưu (cụ thượng làng Ngọc Khám) kể lại: “Theo tôi được biết, chú lợn được nuôi được gọi là lợn Ông Hợp bởi lợn tế thần thì phải gọi bằng ông. Còn hợp nghĩa là chú lợn được sự hợp sức của toàn thể dân làng nuôi trong ba năm. Việc chăm nuôi này nhằm tỏ sự tôn kính với chú lợn trong việc tế lễ”.

Theo cụ Thật và cụ Ưu, chú lợn được chọn là lợn giống tốt, có sức lớn, lông phải đen tuyền, nuôi trong điều kiện sạch sẽ, ăn ngon. Khi đã nhận nuôi “lợn Ông Hợp” thì không được phép gọi là con lợn mà phải gọi là “ông lợn”. Nuôi cũng không được nhốt như nuôi lợn nhà, mà phải thả rông. Người lớn, trẻ nhỏ thấy cũng kính cẩn gọi là “ông lợn” chứ không dám đánh đuổi.

Hội làng diễn ra vào ngày mùng 7-1 âm lịch thì ngay từ ngày mùng 5, những “ông lợn” đã được gia chủ tắm rửa sạch sẽ và cho ăn thật no. Vào ngày mùng 6, ông đám phải làm sao để “ông lợn” tự đi ra đình làng mà không phải bắt đi hay khênh đi. Sau khi đã đưa được “ông lợn” ra đình thì dùng dây cột “ông” lại để đến sáng hôm sau làm lễ.

“Vì làng chúng tôi có 4 giáp nên sáng ngày mùng 7, bốn vị tế đám dẫn đầu 4 đoàn rước mâm lễ bánh dày, cá nướng long trọng tiến về sân đình. “Lợn Ông Hợp” chính là đồ tế thánh tươi sống, còn mâm bánh dày, cá nướng là đồ tết chín.

Trước khi tế, các vị hương lão, chức dịch đi đo chiều dài, vòng ngực, vòng mông để tính trọng lượng của 4 ông lợn. Lợn của giáp nào to hơn thì được giải thưởng của làng. Giải thưởng chỉ là quả cau lá trầu nhưng cả giáp đều mừng vì người ta quan niệm, cả giáp sẽ được thánh phù trợ mạnh khỏe, ăn nên làm ra, phong dồi vật thịnh năm ấy”, cụ Ưu cho biết.

Về đồ tế chín, từ ngày mùng 6, người đứng ra tế đám phải nhờ người nhà, họ hàng đến làm cỗ, trong đó có đôi bánh dày to bằng lòng mâm và hai con cá trắm to nướng chín. Khi ông đám nhận ruộng nuôi “ông lợn” cũng là nhận nuôi cá làm lễ nữa. Mỗi ông đám sẽ phải nuôi 3 con cá trắm đen nặng trên 3 kg và 10 con cá mè.

Cách nướng cá khá kỳ công, cá treo cách lửa chừng một gang tay để hơi lửa làm cho cá khô dần. Khi cá khô hẳn thì dùng chổi lông thấm nước mắm ngon có gia vị rồi quét đều lên thân cá rồi nướng tiếp, cứ khô lại quét một lượt nước mắm nữa.

Sau nhiều lần quét mắm, cảm thấy cá đã ngấm đủ gia vị thì người ta cậy vảy cá nhét vào một hạt thóc nếp, cứ mỗi vẩy một hạt và lại nướng tiếp, đến khi hạt thóc gặp sức nóng nở hết là được. Lúc này vảy cá nở như cánh hoa nom rất đẹp, lại dậy mùi thơm ngon của gia vị quyện mùi cá nướng.

Ông đám có lợn được thưởng sẽ được vinh danh hơn các ông đám khác. Sau buổi lễ long trọng ngày mùng 7, đến ngày mùng 8 các “ông lợn” được đưa trở lại nhà ông đám để giết thịt.

Thịt ông lợn được chia đều cho mọi người dân trong làng, từ già tới đứa trẻ ẵm ngửa.

Tuy theo chức sắc và cấp bậc của người đó mà số thịt lợn được chia cũng khác nhau. Sau khi tế, ông đám sẽ được hưởng lộc của làng gồm: một chiếc bánh dày 7 tấc, một khoanh giò lụa 2 tấc, một con cá mè to... Công việc cuối cùng là lựa chọn ông đám tiếp theo cho lễ hội ba năm tới.

Theo Nông Thôn Ngày Nay

Những chuyện kinh dị về “hồn ma cung nữ đòi nợ” ở Yên Tử

Đầu năm, Phật tử khắp cả nước ùn ùn đổ về Yên Tử như về cõi Phật. Yên Tử không chỉ là danh thắng, mà còn là một đỉnh non thiêng, bởi nó là núi của tâm linh. Vậy nên, dãy núi ấy có vô số chuyện kỳ bí cũng là điều dễ hiểu. Trong vô vàn những câu chuyện bí ẩn, khó tin, thì chuyện ở suối Giải Oan khiến không ít người phải rùng mình sợ hãi.

50 người bị “hồn ma” dựng giường đòi đá sỏi

Những chuyện tâm linh huyễn hoặc thường qua lời kể của người nọ, người kia, có thêm mắm dặm muối, nên thường trở nên “tam sao thất bản”, không còn đáng tin cậy nữa. Tuy nhiên, chuyện kể từ một vị lãnh đạo, một nhà nghiên cứu văn hóa, thì quả là đáng lưu tâm.

Một ngày giữa năm 2007, khi đang lang thang ở suối Giải Oan - nơi 100 cung nữ trẫm mình khi không thuyết phục được vua Trần Nhân Tông quay về kinh đô, ông Lê Quang - Phó Giám đốc Trung tâm quản lý Di tích – Danh thắng Yên Tử - gặp một cảnh tượng khá lạ: Mấy chục người đàn bà vừa quỳ vừa lạy, vừa khóc bên bờ suối. Có người chắp tay với nén hương nghi ngút khói, vái lấy vái để.

6 Những hòn cuội dưới chân cầu do những người từng lấy ở suối Giải Oan, mang trả lại.

Thấy khó hiểu, ông Quang liền tìm gặp tài xế chở những phụ nữ này đến suối Giải Oan hỏi chuyện. Anh này kể rằng, hồi đầu năm, vào đúng dịp lễ hội Yên Tử, anh được công ty chỉ định chở 50 chị em thuộc hội phụ nữ ở một phường của thành phố Lạng Sơn về trẩy hội Yên Tử theo hợp đồng. Chị em đi lên Yên Tử theo đường cáp treo, nhưng khi về, vì muốn khám phá Yên Tử nhiều hơn nên đã đi theo đường bộ. Cuối buổi hành hương, chị em làm lễ cúng bái linh đình ở chùa Giải Oan.

Cúng xong ở chùa, thì chị em kéo ra miếu Bạch Mẫu Giải Oan, là ngôi miếu nhỏ nằm dưới gốc cây ngay cạnh suối. Cúng bái, hóa vàng, thụ lộc xong, chị em kéo nhau xuống suối Giải Oan để rửa chân, rửa tay. Theo sáng kiến của một số người, thì rửa tay chân, thậm chí tắm ở suối Giải Oan, sẽ có làn da mịn màng, trắng nõn như… cung nữ. Nhiều chị em còn té cả nước lên người, ướt cả quần áo.

Không biết nghe thông tin ở đâu mà lúc về, mỗi người nhặt vài hòn cuội cho vào túi. Người lấy ít thì cũng 2-3 hòn, người nhiều lấy đầy túi, cả chục hòn cuội lớn bé. Chị em bảo rằng, trong mỗi hòn cuội đều ẩn chứa các linh hồn cung nữ, nên dùng sỏi cuội này kỳ cọ thân thể, sẽ được phù hộ, khiến da dẻ trắng đẹp, mịn màng chả khác gì… cung nữ thời Trần.

Thấy chị em tin tưởng vào điều đó, nên anh tài xế cũng nhảy xuống suối nhặt vài viên. Anh mang mấy viên cuội về với mục đích làm kỷ niệm. Vợ anh thấy ông chồng bày mấy cục sỏi trên tủ, thì mắng dở hơi. Nhưng khi anh kể chuyện dùng sỏi kỳ cọ, da dẻ sẽ hồng hào, mịn màng như cung nữ, thì… ngày nào cô vợ cũng lôi ra kỳ cọ!

Ngay sau hôm dùng sỏi để kỳ cọ thì vợ anh như biến thành người khác, với đôi mắt thâm quầng vì mất ngủ. Chị bảo rằng, cả đêm không ngủ được, vì hễ cứ nhắm mắt lại mơ thấy những cung nữ xinh đẹp, với màu áo trắng, làn da trắng muốt, nhìn chị bằng đôi mắt giận dữ và hét lên: “Trả đá cuội cho ta”. Giấc mơ hãi hùng đến đỉnh điểm khi chị có cảm giác dựng người lên, rồi giật mình tỉnh giấc. Sau nhiều đêm gặp ác mộng, sợ hãi mấy hòn sỏi, chị không dùng để tắm nữa, mà đặt lại tủ. Thế nhưng, những cung nữ vẫn tìm gặp chị trong giấc mơ.

Vài hôm sau, doanh nghiệp vận tải gọi anh lái xe này lên và phân công chở 50 phụ nữ ở phường nọ về lại Yên Tử. Lúc lên xe, anh mới kinh hoàng biết rằng, 50 phụ nữ từng hành hương về Yên Tử, từng lấy đá cuội ở Yên Tử về làm dụng cụ kỳ cọ cơ thể, đều bị… dựng giường. Anh lập tức gọi điện cho vợ thắp hương, rồi mang ngay những viên cuội ra công ty, để trả lại Yên Tử.

Suốt hành trình 4 tiếng đồng hồ từ Lạng Sơn về Yên Tử, anh tài xế được nghe 50 chuyện kinh hãi từ chị em phụ nữ. Tựu trung lại, chị em nào cũng gặp ác mộng, bị “cung nữ” trẫm mình ở suối Giải Oan dựng giường đòi đá cuội. Sau nhiều ngày mất ngủ, ai cũng phờ phạc, lo lắng. Chuyến về Yên Tử lần trước háo hức, vui vẻ, thì chuyến về lần này đầy lo âu.

Đến Yên Tử, việc đầu tiên của chị em là tìm lên chùa Giải Oan. Chị em được sư trụ trì hướng dẫn cách sắp lễ, cúng bái. Hương khói nghi ngút, vàng hóa cháy bùng bùng. Xong các nghi lễ, chị em xách mấy chiếc làn đựng đầy đá cuội ra suối Giải Oan. Họ vái lạy khẩn thiết, vừa cầu xin các “cung nữ” tha thứ, xin được trả lại “vật thiêng”. Chị em phụ nữ rải những viên cuội về với suối. Xong việc, nhóm phụ nữ này lên xe về thẳng, chứ không còn tâm trạng nào để tham quan nữa.

Theo lời ông Lê Quang, không chỉ ở suối Giải Oan, mà khắp dãy núi thiêng Yên Tử đã xảy ra rất nhiều chuyện kỳ bí, khó lý giải.

Doanh nghiệp liêu xiêu vì xẻ đá suối Giải Oan

3 Sư Yến chỉ nơi để những phiến đá được trả lại.

Mặc dù Yên Tử nườm nượp người, nhưng con đường hành hương cuốc bộ vẫn khá vắng. Đường vào suối Giải Oan, lên chùa Giải Oan khá vắng người. Khi tôi đến, sư Yến đang ngồi trên ghế đá chỉ đạo đám thợ lát nền sân chùa cho cẩn thận, đẹp đẽ. Hỏi chuyện mấy chục người phụ nữ ở Lạng Sơn lấy đá cuội ở suối Giải Oan, bị “vong hồn” các cung nữ đòi lại, sư Yến bảo rằng, chuyện đó diễn ra thường xuyên, quá nhiều, nên không nhớ được.

Sư Yến bảo: “Mỗi năm, có vài chục vụ phải mang đá cuội trả lại suối. Không ai có thể lấy bất cứ thứ gì ở suối Giải Oan, nếu Bạch Mẫu không cho. Nhiều người chỉ lấy viên cuội về mà ốm đau, suýt chết.

Tuy nhiên, Bạch Mẫu thiêng lắm, độ trì cho thầy nhiều lắm. Có thời gian, thầy muốn xuống núi, vì già rồi, muốn tìm về ngôi chùa thanh tịnh, gần nhà, nhưng Bạch Mẫu không cho đi đâu. Hồi đó thầy ốm yếu lắm, cứ một ngày khỏe thì 10 ngày ốm. Thế nhưng, Bạch Mẫu độ cho thầy, nên mỗi ngày thầy lại khỏe ra, đôi mắt tinh anh mười phần”.

Bạch Mẫu được cho là hồn thiêng của các cung nữ đã trẫm mình xuống con suối vì không thuyết phục được Thượng hoàng Trần Nhân Tông rời núi. Cạnh con suối Giải Oan, ngoài ngôi chùa cùng tên, còn có ngôi miếu nhỏ dưới gốc cây đa lớn, ngay cạnh con suối, là miếu Bạch Mẫu Giải Oan. Sư Yến tiết lộ rằng, Bạch Mẫu đã độ trì cho bà được nhìn thấy hình ảnh rồng thiêng hiện trên dãy Yên Tử (?!).

Sư Yến từng là người tu hành mấy chục năm ở dãy Yên Tử, bà từng ngủ với rắn độc khổng lồ ở chùa Một Mái, ngồi tu thiền trong mái đá mà hổ dữ chầu chực miệng hang, vui đùa cùng bọn khỉ trong rừng tùng, chứng kiến vô số chuyện linh thiêng khó tin trên dãy Yên Tử, nhưng bà chưa từng gặp nhiều chuyện kỳ lạ, linh thiêng như ở con suối Giải Oan.

4 Những phiến đá được trả lại cho chùa Giải Oan.

Sư Yến dẫn tôi ra chái chùa, nơi đặt tấm bia ghi công đức những người xây dựng chùa Giải Oan. Dưới tấm bia đó là hàng chục phiến đá được cắt xẻ, gọt giũa kỹ lưỡng, rất đẹp. Có phiến đá trạm trổ hình rồng phượng, chữ nho, chữ quốc ngữ… Sư Yến bảo: “Nhiều doanh nghiệp, cá nhân, sau khi cúng bái ở chùa Giải Oan, miếu Bạch Mẫu Giải Oan, thì cho công nhân khai thác đá ở lòng con suối này. Họ chỉ cưa lấy một mảnh đá, thường là để làm bát hương, mái đao trên nóc mộ, cột trụ công trình thờ tự, và nhiều nhất là chạm khắc bia, làm biển hiệu… với mong muốn được may mắn, được Bạch Mẫu Giải Oan - tức là các cung nữ - phù hộ. Tuy nhiên, Bạch Mẫu không ủng hộ việc tự do lấy đồ vật của chốn linh thiêng, nên tất cả những người lấy đá ở suối Giải Oan đều phải trả lại. Trong mỗi viên đá ở con suối Giải Oan này đều có linh hồn cung nữ, nên không thể cưa đá đem về nhà làm những việc trần tục được”.

Sư Yến dùng chiếc gậy chọc chọc vào đống đá đã được cưa xẻ và bảo tôi bê một phiến đá ra. Đó là phiến đá hình vuông, cỡ 40x40, dày chừng 10cm. Mặt phiến đá có khắc dòng chữ quốc ngữ: Tòa nhà trung tâm triển lãm quốc tế H. Bên dưới dòng chữ quốc ngữ là mấy chữ nho. Sư Yến kể rằng, chủ nhân của tòa nhà này là một đại gia giàu có ở Hải Phòng. Cứ vài tháng anh này lại hành hương về Yên Tử. Anh thường dâng lễ rất thành kính lên chùa và ngồi hàng giờ thiền trên những tảng đá ở suối Giải Oan.

Hồi năm ngoái, sau khi cúng bái ở chùa Giải Oan, vị đại gia này đã xin phép sư Yến cho lấy một tảng đá ở suối, mang về làm một vật gì đó mang tính biểu tượng cho doanh nghiệp của mình. Sư Yến đã ra sức can ngăn, nói rằng bất kỳ ai lấy thứ gì ở suối Giải Oan đều phải trả lại, song vị đại gia này chỉ cười chứ không tin. Theo vị đại gia này, anh ta là người thành kính với Đức Phật, có tâm nên nghĩ rằng, các cung nữ sẽ phù hộ cho anh làm ăn phát đạt, chứ không thể làm hại anh. Sau khi làm lễ ở miếu Bạch Mẫu Giải Oan, anh này xuống suối tự tay lựa một hòn đá và sai cả chục cán bộ cùng khênh khối đá to cỡ cái thúng lên xe, chở về Hải Phòng.

2 Vị đại gia ở Hải Phòng lấy khối đá tạc tấm biển này đã phải trả lại cho chùa Giải Oan.

Thời điểm đó, vị đại gia này vừa hoàn thành tòa nhà lớn, cao hàng chục tầng giữa trung tâm TP.Hải Phòng. Tại tòa nhà này, sẽ diễn ra các cuộc triển lãm mang tầm quốc tế và khu vực, là nơi doanh nghiệp các nước giao lưu với nhau, giới thiệu hàng hóa để đẩy mạnh xuất khẩu và nhập khẩu. Sau khi suy đi tính lại, vị đại gia này đã xẻ phiến đá làm tấm bảng, khắc tên tòa nhà, và dự tính sẽ ốp ở ngay cổng tòa nhà - vị trí trang trọng nhất. Hôm chuẩn bị xẻ khối đá, vị đại gia này còn thuê một ông thầy cúng bái, yểm tâm ghê gớm lắm.

Thế nhưng, chừng 10 tháng sau, vị đại gia này cùng gia đình và một số cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp tìm đến chùa Giải Oan, với khuôn mặt phờ phạc, méo xẹo. Theo anh ta, từ khi mang khối đá về, đêm nào anh cũng mơ thấy những cung nữ, mặc quần trắng, múa may trước mặt, rồi đòi lại khối đá. Cuối giấc mơ, anh ta có cảm giác như bị dựng giường, rồi bỗng nhiên bật dậy, mồ hồi đầm đìa.

Từ ngày mang khối đá về xẻ tấm biển hiệu, doanh nghiệp của đại gia này khủng hoảng trầm trọng. Các hợp đồng làm ăn liên tục đổ vỡ. Các dự án bất động sản gặp rất nhiều khó khăn. Nợ nần chồng chất, không có khả năng chi trả. Gia đình vị đại gia lục đục. Một số cán bộ trực tiếp tham gia vào việc khênh tảng đá về cũng toàn gặp xui xẻo, trục trặc trong cuộc sống, gặp tai nạn. Và, điều cuối cùng, là tòa nhà triển lãm được xây dựng hoành tráng, nằm giữa trung tâm thành phố, song chẳng có khách hàng thuê mướn.

Lúc thất bại thảm hại, vị đại gia này mới kiếm một thầy bói nổi tiếng đất cảng. Vị thầy bói này mới hỏi rằng: “Anh có lấy thứ gì của chùa chiền, miếu mạo không?”. Vị đại gia kia liền toát mồ hôi. Bữa đó, vị đại gia kia đến với mấy mâm lễ rất lớn cùng một xe tải chở đầy vàng mã. Sư Yến cùng mấy ông thầy cúng hành lễ bên suối buổi sáng, rồi hóa vàng cháy rừng rực bên suối Giải Oan. Làm xong các nghi lễ, thì đặt hòn đá tại chùa để sư Yến tiếp tục cúng bái giải hạn cho vị đại gia nọ. Xong xuôi đâu đấy, sư Yến mang khối đá đặt ở chái chùa, nơi có rất nhiều khối đá, do các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khác mang trả.

Thêm một góc nhìn khác

Khu vực quanh suối Giải Oan chỉ có 4 người sinh sống gồm sư Yến và gia đình gồm 3 thành viên của chị Nguyễn Thị X. Chị X cùng chồng thuê một gian nhà nhỏ của Trung tâm quản lý Di tích – Danh thắng Yên Tử để bán hàng. Sống cạnh suối Giải Oan ngót chục năm, nên chị X hiểu rõ nhất về con suối này. Theo chị, du khách đến suối Giải Oan đều mang nhiều tâm sự. Chị từng chứng kiến rất nhiều cô gái có hoàn cảnh éo le như trót mang bầu bị ruồng bỏ, mắc AIDS, bệnh trọng… ngồi bên suối Giải Oan khóc lóc, tâm sự như thể đang nói chuyện với các cung nữ hiện diện trước mặt. Tâm sự, khóc lóc xong, họ đều trở nên thanh thản, và tìm được lối thoát cho cuộc đời mình.

Về lời đồn cung nữ báo oán những người lấy đá sỏi, chị X bác bỏ hoàn toàn. Chị bảo: “Con người không ai trọn vẹn cả, có lúc vận hạn, lúc may mắn. Lúc may mắn thì không sao, nhưng gặp hạn thì lại đổ cho lấy đá, thì oan cho các cung nữ lắm. Cung nữ giờ được phong là Bạch Mẫu, được gọi là Cô, được thờ cúng chu đáo, chứ có phải oan hồn vất vưởng, đói ăn đâu mà hại người lành? Em ở đây theo dõi thấy người lấy đá thì nhiều, nhưng thỉnh thoảng mới có người trả lại. Những người trả đá cuội chắc là gặp vận đen trong cuộc sống thôi”.

Mặc dù bác bỏ chuyện ma quỷ, oan hồn, song chị X tin rằng, linh hồn các cung nữ luôn bảo vệ người hiền, người bị oan trái, người yếu đuối. Vì thế, người dân quanh vùng hễ gặp chuyện buồn, chuyện oan, đều tìm đến miếu Bạch Mẫu tâm sự, trút bỏ nỗi lòng. Đêm về, họ sẽ mơ thấy các cung nữ và được các cung nữ hướng dẫn, khai mở cho.

Sáng nào cũng vậy, mỗi khi trở dậy, gia đình chị X thay nhau lên miếu Bạch Mẫu thắp hương. Vì thế, bao năm nay, vợ chồng, con cái đều khỏe mạnh, chẳng bao giờ ốm đau. Thậm chí, mới đây, anh Th - chồng chị - khi ngồi trên xe máy ở chỗ suối Giải Oan, bị sét đánh trúng khiến xe bốc cháy, mà người không hề gì. Sau vụ đó, chị X càng tin vào sự linh thiêng của Cô ở suối Giải Oan.

Chuyện kể rằng, sau 2 lần lãnh đạo nhân dân đánh thắng quân Nguyên Mông, Vua Trần Nhân Tông đã quyết từ bỏ ngai vàng về tu ở Yên Sơn, sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm và xây dựng nơi đây trở thành trung tâm văn hóa, kinh đô Phật giáo. Vì không muốn vua cha vào Yên Tử nên Trần Anh Tông ngầm sai các cung tần mỹ nữ tìm đến can ngăn, nhưng Trần Nhân Tông vẫn một lòng theo đạo và khuyên mọi người hãy trở về với triều đình hoặc quay về quê cũ làm ăn. Để tỏ lòng tận trung, các cung nữ đã nhảy xuống dòng suối Hổ Khê quyên sinh... Vua Trần xót thương cho số phận của họ nên đã lập đàn tràng làm lễ siêu độ, đồng thời lập ra chùa Giải Oan. Dòng suối Hổ Khê cũng được đổi tên thành suối Giải Oan từ đó.

    Phong Nguyệt/Lao Động